Bài nghị luận văn học Trao duyên
Bạn đang đọc: Bài nghị luận văn học Trao duyên
Bài nghị luận văn học Trao duyên
Bài viết hôm nay Cunghocvui xin giới thiệu với các bạn về nghị luận văn học bài Trao duyên!
Bài mẫu Nghị luận văn học Trao duyên:
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc bản địa Nước Ta và cũng là của quốc tế. Ông tên là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Ông sinh ra trong một mái ấm gia đình phong kiến quý tộc và sống trong xã hội phong kiến – Một xã hội suy thoái và khủng hoảng, thối nát. Nguyễn Du đã từng trải qua hơn chục năm sống khó khăn ở nhiều vùng quê khác nhau, nếm đủ những thứ vị đắng cay của đời sống phong trần. Trong đó có mùi vị của sự chia tay, dang dở của tình yêu đôi lứa. Sau khi đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du sáng tác nên đại thi phẩm bất hủ : ” Truyện Kiều ”. Đoạn trích “ Trao Duyên ” là một đoạn trích biểu lộ khá rõ thảm kịch tan vỡ, dang dỡ của tình yêu Thuý Kiều – Kim Trọng và nỗi đau tột cùng của Kiều về số phận thảm kịch của nàng, đồng thời biểu lộ tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa xuyên suốt trong thơ Nguyễn Du trước những đau khổ, xấu số cũng như khát vọng niềm hạnh phúc của con người. Cùng nhau khám phá nội dung nghị luận văn học Trao duyên 12 câu đầu để hiểu rõ về mối tình Kiều – Trọng. Sau khi xử lý xong thủ tục bán mình ( “ Tờ hoa đã ký-cân vàng mới trao ” ), lấy tiền lo cho vụ kiện nhà Kiều, ngày mai Kiều sẽ phải rời theo Mã Giám Sinh ra đi. Đêm ấy Kiều bồi hồi thương cho chàng Kim, tìm cách trả nghĩa nợ tình cho chàng. Đèn thắp sáng đêm, nước mắt đầm đìa. Nhân Thúy Vân thức dậy hỏi, Kiều giờ đây mới cậy em thay lời và trao duyên cho em. Mối tình Kim-Kiều đâu phải là mối tình trăng gió thoảng qua. Đây là mối tình đầu say đắm nhất, trong sáng nhất. Thế mà giờ đây phải đem mối tình ấy trao cho người khác – còn có nỗi đau nào hơn ? ! Lời Thuý Kiều nói với em đau đến từng chữ : Cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa Mở đầu cuộc trao duyên, Thuý Kiều có cách nói, cách xưng hô đặc biệt quan trọng. Tại sao Kiều không nói “ nhờ em ” mà lại nói “ cậy em ” ? Bởi vì chữ cậy bao hàm ý kỳ vọng tha thiết của một lời trông cậy, có ý phụ thuộc, tin yêu nơi quan hệ ruột thịt, gửi gắm nỗi khẩn khoản thiết tha. Kiều nói “ em có chịu lời ” chứ không nói “ em có nhận lời ” ngoài nguyên do từ “ chịu lời ” mang sắc thái bắt buộc, Kiều muốn em không được phủ nhận đề xuất của mình mà còn do tại Kiều cảm thấy đây là một sự thiệt thòi, một sự quyết tử lớn lao của em Vân – em sẽ phải yêu và kết hôn vợ chồng với một người mà mình chưa yêu. Cách nói như vậy tương thích với thực trạng và tâm trạng van nài, khẩn thiết của Kiều. Ngày xưa, giáo lý phong kiến thời xưa rất khắt khe. Xưa nay bề dưới lạy bề trên, em phải thưa gửi lễ phép khi nói với chị. Nhưng lúc này, Kiều lại đang bảo em “ ngồi lên ” rồi “ lạy ”, ” thưa ”. Tại sao Kiều lại gật đầu hạ mình xuống hàng thấp của người thấp vế ? Bởi vì việc và Kiều sắp “ cậy ” em là một việc rất hệ trọng. Tư thế “ lạy ”, ” thưa ” là tư thế của một người chịu ơn với ân nhân của mình. Thật vậy, em Vân sẽ phải thay Kiều quyết tử tình duyên của mình mà giúp Kiều nối duyên với chàng Kim, việc làm đó Kiều mang ơn em rất lớn. Ngoài ra, hành vi “ lạy ”, ” thưa ” của Kiều còn tạo ra một bầu không khí nghiêm trang, trịnh trọng, Kiều “ vưa tình vừa lễ ”, làm cho em không hề không nhận lời. Với cách dùng từ khôn khéo và đầy sắc thái ý nghĩa, chỉ qua hai câu thơ, Nguyễn Du đã khởi đầu cuộc trao duyên đầu hồi hộp, sang chảnh và đồng thời bộc lộ thực trạng éo le, tâm trạng khẩn thiết, bế tắc của Kiều. Nguyễn Du không kể lại thái độ của Thuý Vân thế nào do tại hai câu đầu chỉ là lời bày tỏ ý nguyện. Đúng là sau đó, Kiều nói ngay đến mối tình dang dở của mình : Giữ đường đứt gánh tương tư Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em Trong thời đại phong kiến, không được phép tự do yêu đương, thì đây là một tâm sự còn giấu kín của Kiều. Giờ đây Kiều buộc phải nói rõ cho em Vân. Người xưa xem tình yêu là một gánh nặng, cho nên vì thế người ta hay nói : ” gánh tương tư ”. Mối tình của Kiều và chàng Kim đang đến độ đắm say nhất, nồng nàn nhất. ” gánh tương tư ” của Kiều giờ đây nặng hơn khi nào hết. Trớ trêu thay, cơn gia biến ập đến với Kiều. Kiều đang “ giữa đường ”, đang gánh một “ gánh tương tư ” nặng trĩu thì gánh đứt, không sao mang xách lại được. Hình ảnh ấy đã biểu lộ rõ tâm trạng bất lực của Kiều. Và do đó mà giờ đây, Kiều phó thác “ gánh tương tư ” bị gãy – hay nói theo cách của Kiều là tơ duyên mối vướng – lại cho em Vân. Nhưng so với Thuý Vân, đó là một “ mối tơ thừa ”. Kiều hiểu thấu cảm xúc thiệt thòi của em nên nói thẳng ra : ” Mặc em ”, có nghĩa là “ phó mặc cho em đó, dang dở hay không em cũng phải gánh vác, chắp nối cho chị. Kiều rất là mong em dùng thứ keo bền nhất – “ keo loan ”, thứ keo chế bằng huyết chim loan – để “ chắp mối tơ thừa ” này và sao cho nó không khi nào đứt nữa. Câu nói này mang giọng điệu của người chị phó thác cho em, nên câu thơ mang sắc thái dứt khoát, nghiêm trang và mang nhiều “ sức nặng ” của giọng điệu. Không còn gì để mất nữa, đến lúc này Kiều hoàn toàn có thể bình tĩnh nói cặn kẽ chuyện tình, nỗi đau của mình : Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước khi đêm chén hề Sự đâu sóng gió bất kể Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai Đây là những điều bí hiểm của Kiều mà Thuý Vân chưa hề được biết, là điều lễ giáo phong kiến cấm kỵ, nhưng giờ đây, Kiều buộc phải thành thật kể cho em nghe, với kỳ vọng một sự thông cảm san sẻ. Lời nói của Kiều thật bình tĩnh, rõ ràng và ngẹn ngào, cặn kẽ nỗi đau. Sự trùng điệp của ba điệp từ “ khi ” : ” khi gặp ”, ” khi ngày ”, ” khi đêm ” đã nói lên sự thề ước sâu nặng, không hề nuốt lời, càng chứng minh và khẳng định tình trạnng bế tắc của Kiều. Kiều ý niệm tình yêu của mình khác với ý niệm tình yêu của xã hội phong kiến đương thời : Đó là sự cảm nhận yêu thương từ trong trái tim chứ không phải sự bức ép, ràng buộc. Phải chăng Nguyễn Du đã cho Kiều phá vỡ ý niệm lỗi thời, bất công so với tình yêu đôi lứa để hướng tới tình yêu đích thực của con người ? Mối tình Kim-Kiều đang mặn nồng thì cơn gia biến ấp đến. Lúc này đây Kiều phải chọn một trong hai : ” Hiếu ” hoặc “ tình ” chứ không hề “ hai bề vẹn hai ” được. Thật ra, trong thực trạng “ Hiếu-tình chọn một ” thì Kiều vẫn hoàn toàn có thể chọn “ tình ”, tức là bỏ mặt mái ấm gia đình trong sự tra khảo dã man mà bỏ trốn, trọn đời bên chàng Kim. Nhưng Kiều đã chọn “ hiếu ”, Kiều đã quyết tử mối tình với chàng Kim và thậm chí còn là cả tấm thân trinh trắng của mình để cứu lấy mái ấm gia đình. Kiều đã nói ra cái lý của mình và kỳ vọng em ắt sẽ đồng cảm tâm trạng thảm kịch của mình. Từ “ sự đâu ” như một lời oán trách số phận, ngoại cảnh đã gây “ sóng gió bất kể ” làm tan vỡ mối tình đầu sâu nặng. Trở lại với cuộc trao duyên, sau khi kể rõ chuyện tình và nỗi đau của mình, Kiều chuyển sang nghiên cứu và phân tích ý nghĩa, gửi gắm em Vân : Ngày xuân em hãy còn dài Xót tình máu mủ thay lời nước non Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây “ Ngày Xuân ” mang tính ước lệ, có ý tuổi trẻ của người con gái. Tuổi trẻ của em con dài và vì “ tình máu mủ ” giữa em và chị mà “ thay lời nước non ” giúp chị. Kiều lôi kéo tình chị em máu mủ ruột thịt thiêng liêng, gợi dậy ở Vân đức quyết tử và lòng vị tha vì người thân trong gia đình. Nếu được thõa nguyện, thì dẫu Kiều chết đi, dưới chín suối cũng hả dạ, vì có được tiếng thơm là người có tình nghĩ. Nhưng điều đặc biệt quan trọng ở đây là Kiều xem như mình đã chết, như người chết. Câu ” ngày xuân em hãy còn dài ” còn có ý nghĩa là “ ngày xuân của chị đã hết rồi ”, chị chỉ còn “ thịt nát xương mòn ” và “ ngậm cười chín suối ”, nơi cõi chết. Nguyễn Du đã khôn khéo tinh xảo để cho dự cảm từ từ len lõi vào lời nói của Kiều. Bề ngoài tưởng như Kiều đã sắp xếp hết mọi chuyện nhưng sâu thẳng trong lòng là nỗi đau đớn tưởng chừng như hoàn toàn có thể chết được.
Soạn bài Trao duyên – Trích Truyện Kiều – Ngữ văn 10 tập 2
Nói xong lời thỏa nguyện bình sinh và hàm ơn so với em, Kiều liền trao kỷ vật kỷ niệm : Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ vật này của chung. ” Tờ mây ” là tờ hoa tiên có vẽ vân mây, là tờ hoa tiên mà trên đó Kiều đã ghi lời thề ( “ Tiên thề cùng thảo một chương ” ). Kiều trao duyên cho Vân thì những những vật kỉ niệm ( “ chiếc vành ”, ” tờ mây ” ) trước đây thuộc về mối tình Kiều – Kim thì giờ đây đã thuộc về Vân – Kim. Cho nên, khi đã gửi gắm “ lời nước non ”, việc hiển nhiên Kiều phải làm là trao những vật thiêng liêng ấy lại cho Vân. Nhưng câu tiếp theo thật kỳ lạ : ” Duyên này thì giữ vật này của chung ” ! ” Duyên đây là nhân duyên, duyên phận, cơ duyên, tức là sự run rủi cho số phận hai người trai gái gặp nhau, kết đôi với nhau và lấy nhau. ” Duyên này ” là duyên mà Kiều đã trao cho Vân, trở thành duyên của Vân với chàng Kim, vì vậy Kiều dặn Vân phải giữ lấy. Nhưng tại sao vật kỷ niệm này là của chung ? Ở đoạn trên, du thuyết phục em bằng lí, hay bằng tình hay bằng cả hai thì vẫn là ngôn từ của lí trí, giọng thơ túc tắc, trầm trầm. Đến đây thì lời thơ như nấc thẹn. Cái “ gút ” tâm trạng đầu đoạn trích đã được “ mơ ” û ra nhưng có vẻ như giờ lại bị “ thắt ” lại bộc lộ qua lời nói bất bình thường. Nút “ thắt ” này chính là nút thắt của nội tâm Kiều. Lời lẽ ấy là lời lẽ của nội tâm Kiều bất chợt thốt ra trước thực sự cay đắng và phũ phàng : Vật này ( Chiếc vành, Tờ mây ) là của nàng, chàng Kim là của nàng, sao giờ đây lại là của Vân ? Nội tâm rối bời, giằng xé ấy bộc lộ Kiều còn muốn giữ lại cho mình, cho quá khứ chôn sâu trong trái tim Kiều, không muốn trao trọn vẹn cho em, bộc lộ tâm trạng day dứt, vướng víu, níu kéo của Kiều so với những kỷ niệm tình yêu của mình với chàng Kim hay nói khác hơn là Kiều “ trao mà không trao ” : trao kỷ vật tình yêu cho em mà không tài nào dứt ra khỏi mối tình. Điều đó chứng tỏ : ” Kiều trao duyên chứ không trao tình ”. Đó là một thực sự đau đớn lòng, khiến cho bao đoc giả phải cảm động. Hai câu thơ trên là diễn biến chính của cuộc trao duyên nên mang nhiều ý nghĩa hình tượng và trữ tình rất lớn. Nguyễn Du thật tinh xảo và cũng thật nhân bản trong ý thơ của mình. Chỉ với hai câu thơ mà ông đã chuyển tải đến fan hâm mộ nhiều góc nhìn tâm trạng của Kiều hay mang tính khái quát hơn là của cả những người con gái đang yêu trong xã hội phong kiến đương thời và thậm chí còn ở xã hội văn minh thời nay : ” Khi đang yêu, ai lại muốn trao duyên khi nào ? ” Từ nay, những kỷ vật Kiều trao lại cho em còn là vật làm tin nhắc nhở đến Kiều, để khi Vân có được niềm hạnh phúc thì đừng quên Kiều : Dù em nên vợ nên chồng Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên Mất người còn chút của tin Phím đàn với mảnh hương huyền thời xưa Ý nghĩ của Kiều thật chua chát, tủi buồn. Nó đọng lại ở câu : ” Dù em nên vợ nên chồng ”. Trao duyên cho em rồi, cũng đã trao trả kỷ vật lại cho em, đã “ cậy ” em, ” lạy ” em, biết bao nhiêu khẩn khoản, tin yêu … ấy thế mà Kiều vẫn đặt một giả thiết, như có điều gì đó vẫn chưa ổn, chưa yên. Kiều tự thấy mình đáng thương biết bao, mình là “ người mệnh bạc ” để cho người khác ( em Vân ) phải “ xót ”, phải thương hại ! Cây đàn hồ đào ngày nào Kiều đàn cho chàng Kim nghe, và mảnh hương huyền ngày nào từng chướng kiến hai người thề nguyền cũng để lại cho em như là vật của tin. Đối với Kiều, chúng đã trở thành quá khứ xa xôi của “ rất lâu rồi ”. Trớ trêu thay, ” của tin ” vẫn còn đó mà người thì lại “ mất ” : ” Mất lòng còn chút của tin ” – lời nói của Kiều đề cập đến cái chết mà vẫn mang âm điệu trầm trầm, vẻ như “ chuyện tất yếu ” – khiến cho nhiều fan hâm mộ nhạy cảm phải “ nhói lòng ”. Ý nghĩ về cái chết cứ trở đi trở lại, ám ảnh Kiều. Nhất là khi trao kỷ vật tình yêu cho em, Kiều cảm thấy như mình đã chết, bởi khi mất đi tình yêu, đời sống so với Kiều chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Rồi như người mất hồn, vẫn ngồi đây, mà hồn thì bay xa xăm tận “ tương lai ” : Mai sau dù có khi nào Đốt lòng hương ấy so thơ phím này Trông ra ngọn cỏ lá cây Thấy hiu hiu gió thì hay chị về Kiều đã mất hết hiện tại. Tương lai của nàng trông chờ vào lòng thương. Mai sau khi em “ đốt hương ”, chơi đàn ( “ so tơ ” ) – những lúc hạnh phục thì hãy nhớ đến chị. Cái cách tưởng tượng oan hồn bơ vơ của mình nơi tương lai thật là thê thảm : Kiều sau này chỉ là một ngọn gió vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ ! Còn gì để thương cảm hơn là gợi lên những hình ảnh hư vô ? Kiều bị ám ảnh bởi oan hồn của Đạm Tiên. Kiều gặp chàng Kim tại nơi gần mộ Đạm Tiên, đi chơi xuân về cũng gặp mộ Đạm Tiên … Trước mộ của Đạm Tiên, nghe em Vương Quan kể về số phận đau thương của nàng, Kiều không cầm nổi nước mắt : ” Kiều đâu mối sẵn thương tâm – “ Thoắt nghe, Kiều đã đầm đầm châu sa ”. Nay số phận Kiều cũng éo le như như của Đạm Tiên. Cho nên, ” hồn ” của Kiều cũng giống như hồn Đạm Tiên ” ào ào đổ lộc rung cây ” – có ý thức quay về cõi trần : Hồn còn mang nặng lời thề Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai Thì ra, ” hồn ” của Kiều vẫn chưa dứt nổi chàng Kim. Hồn của Kiều là “ hồn mang nặng lời thề ”. ” Lời thề ” ở đây chính là lời thề đêm thềnguyền vằng vặc ánh trăng mà Kiều không khi nào quên được : ” Vầng trăng vằng vặc giữa trời-Đinh ninh hai miệng một lời song song ”. ” Lời thề ” ấy của Kiều với chàng Kim so với nàng cực kỳ quan trọng. Kiều đã ” trăm năm tạc một chữ đồng đến xương ” với chàng Kim. Bởi thế, dù có tan tành thân xác “ bồ liễu, hình dáng ” trúc mai ”, Kiều cũng quyết gặp lại trực tiếp chàng Kim để “ đền nghì ” cho chàng Kim. Đó là một ý thức, một tấm lòng, một tư tưởng mà không phải người con gái nào cũng có được. Sự thủy chung của Kiều vẫn được biểu lộ rõ nét, đậm đà và càng thâm thúy hơn trong thực trạng ngặt nghèo. Còn so với Vân, khi “ hồn Kiều quay trở về dương gian : Dạ đài cách mặt khuất lời Rưới xin giọt nước cho người thác oan
“Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối.Lúc ấy, một người là con người cõi trần(Thúy Vân), một kẻ là hồn ma âm phủ(Thuý Kiều).em và chị sẽ “cách mặt khuất lời”, tức là sẽ không thấy được nhau và cũng không nghe được tiếng nói của nhau.Khi đó, em hãy rảy chén nước cho “người thác oan” là chị(Theo quan niệm tôn giáo cổ truyền thì nước tinh khiết có thể tẩy rửa nỗi oan khuất, làm cho oan hồn được mát mẻ siêu thoát).Qua đó chứng tỏ Kiều tuy tự nguyện hy sinh, bán mình chuộc cha, nhưng vẫn ý thực được mình bị oan uổng cho nên sau khi chết, hồn oan không tan.Trong tình cảnh ngặt nghèo như vậy, Kiều vẫn có ý thức nhận biết và đấu tranh đến cùng đối với sự bất công của xã hội phong kiến đương thời.
” Trâm gãy gương tan ” là hình ảnh của tình duyên tan vỡ. Kiều đã nhận của chàng Kim “ muôn vàn ái ân ” đến nỗi “ kể làm thế nào xiết ” mà giờ đây Kiều lại phản bội, thất hứa, làm “ tơ duyên ngắn ngủi ”, ” trân gãy gương tan ”. Nghẹn ngào, cay đắng, xót xa – bấy nhiêu tâm trạng đối lập với Kiều. Tuy trao duyên cho em Vân, nhờ em “ thay lời nước non ” với chàng Kim, Kiều vẫn thấy mình chịu muôn vàn tội lỗi nên nàng đã gửi lại “ trăm nghìn cái lạy ” cho “ tình quân ” – người đã cùng nàng trải qua bao kỷ niệm tình yêu nồng nàn, say đắm, đã cùng nàng thề nguyền trăm năm bên nhau mà ở đầu cuối lại bị nàng phản bội-mà vẫn cảm thấy chưa đủ. Truớc đây ít phút, nàng đã “ lạy ” em Vân của mình để cầu xin em nối duyên với chàng. Khác hẳn với cái lạy “ mang ơn ”, cái “ lạy ” này là cái lạy tạ tội vô cùng thống thiết. Trong tình cảnh này, Kiều vẫn không hề làm gì hơn ngoài sự tạ tội. Và cái lạy đó so với Kiều đã kết thức mối tình đầu ngắn ngủi, đầy hụt hẫng. Câu : ” Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi ” Kiều thốt lên sao mà thấm đượm vị chua chát, cay đắng của sự chia tay lứa đôi. Đến đây, Kiều mới thấm thía nỗi đơn độc và số phận của mình giữa cõi đời bất công :
Đoạn thơ “Trao Duyên” đúng là Kiều đã nói hết lời(“cạn lời”).Lời trao duyên như nói một lời trăn trối, vĩnh biệt.Trước lời trao duyên, tình yêu thật mặn nồng, say đắm, hạnh phúc, sau lời trao duyên mình đã trắng tay, đôi lứa chia ly, tình yêu tan vỡ.Trước khi trao duyên mình là người sống, sau khi trao duyên mình là hồn oan nơi chín suối.Bằng tài năng tuyệt vời của mình, Nguyễn Du hình dung rất rõ và thể hiện rất thành công số phận bi kịch, nội tâm rối bời, tâm trạng đau khổ, dằng vặc, cay đắng, xót xa và tuyệt vọng trong cuộc trao duyên của Kiều với việc sử dụng một cách khéo léo, tinh tế, sắc sảo từ ngữ, nhiều biện pháp nghệ thuật thích hợp, kết hợp linh động lời kể với lời tự tình, lời độc thoại, ……, làm cho đoạn”trao duyên” trở thành đoạn thơ lâm li nhất trong Truyện Kiều.Và đó cũng là lý do vì sao Truyện Kiều trở thành bất hủ!
Trên đây là toàn bộ kiến thức mà Cunghocvui muốn chia sẻ về bài Trao duyên và đặc biệt là nghị luận văn học Trao duyên 18 câu đầu!
Source: https://blogthuvi.com
Category: Blog